HISTOGRAM: TÌM HIỂU VỀ BIỂU ĐỒ ÁNH SÁNG VÀ ỨNG DỤNG


Understanding Histogram

Biểu đồ ánh sáng (histogram) là một công cụ hữu dụng hỗ trợ nhiếp ảnh gia điều chỉnh phơi sáng chính xác. Trên phần lớn các máy ảnh kỹ thuật số cao cấp, nhất là máy ảnh ống kính đơn phản xạ DSLR (ống kính rời) đều có chức năng hiển thị biểu đồ ánh sáng của ảnh đã chụp, thậm chí có loại hiển thị biểu đồ ánh sáng ngay trong khuôn hình ngắm chụp giúp người chụp dễ dàng điều chỉnh phơi sáng. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của biểu đồ ánh sáng trong nhiếp ảnh. Để sử dụng biểu đồ ánh sáng hiệu quả, trước tiên cần hiểu được biểu đồ này biểu diễn những gì và như thế nào. Bài viết này của VinaCamera.com cung cấp một số thông tin cơ bản về biểu đồ ánh sáng.

Hình 1: Biểu đồ ánh sáng trên máy ảnh Nikon và Canon

Điều dễ dàng nhận thấy khi nhìn vào các biểu đồ ánh sáng là thường có 4 biểu đồ nhỏ, ba biểu đồ biểu diễn ánh sáng của ba màu cơ bản trong bảng màu RGB, gồm màu đỏ (R – red), xanh lục (G – green), và xanh lam (B – blue). Ba màu này được pha trộn tạo nên hàng triệu màu của mỗi bức ảnh, giá trị chung được biểu diễn bằng một biểu đồ thứ 4, thường gọi là RGB; biểu đồ chung này trên các loại máy khác nhau sẽ có màu khác nhau như vàng hay ghi xám (như trong hình 1) hay trắng, ghi nhạt, xám v.v… Trên các phần mềm máy tính, biểu đồ chung RGB – có khi còn được gọi là biểu đồ phơi sáng (exposure) hay có thể nhiều tên gọi khác và có màu trắng hoặc đen… nhưng màu sắc và tên gọi ở đây không quan trọng vì biểu đồ chung RGB đều biểu diễn giá trị ánh sáng chung của toàn bức ảnh. Biểu đồ chung này là biểu đồ hay được sử dụng nhất trong việc đánh giá ánh sáng của một bức ảnh để điều chỉnh phơi sáng phù hợp. Và tất nhiên, dù ở trên máy ảnh hay ở trên phần mềm máy tính, khái niệm và giá trị hiển thị đều giống nhau.

Hình 2: Bốn biểu đồ ánh sáng. Biểu đồ 1 (màu đen) biểu diễn ánh sáng chung của toàn bức ảnh; biểu đồ 2 (màu đỏ) biểu diễn ánh sáng màu đỏ; biểu đồ 3 biểu diễn ánh sáng xanh lục; và biểu đồ 4 biểu diễn ánh sáng xanh lam. Do theo cách phân chia phổ biến hiện nay có 256 cấp độ sáng của mỗi màu, nên ta thấy thang ánh sáng chia làm 256 cấp độ (0 – 255, 0 là tối đen hoàn toàn).

Tìm hiểu hai chiều biểu diễn của biểu đồ ánh sáng

Biểu đồ ánh sáng hiển thị giá trị ánh sáng của một tấm ảnh theo hai chiều:

a. Chiều ngang biểu diễn cường độ sáng (như nói ở trên, được chia theo thang 256 cấp độ) theo qui ước bên trái là ánh sáng tối hơn, sát mép trái là tối đen (giá trị bằng 0) và càng về phía bên phải càng sáng cho đến sát mép phải là sáng trắng hoàn toàn (giá trị bằng 255).
b. Chiều dọc biểu diễn số lượng điểm ảnh có cường độ sáng tương ứng với giá trị chiều ngang.

Để giản lược – bớt chi li mà đại khái hơn – trong nhiếp ảnh số, người ta chia chiều ngang của biểu đồ ra làm ba khu vực chính (đôi khi là 4 hay 5) là khu vực ánh sáng yếu, sát bên trái (shadows), khu vực ánh sáng trung bình ở giữa (midtones) và khu vực ánh sáng mạnh, sát bên phải (highlights). Ta có thể thấy cách phân chia này trên cả các phần mềm chỉnh sửa ảnh như Photoshop.

Hình 3: Ba khu vực ánh sáng (1) Yếu, (2) Trung bình và (3) Mạnh

Quan sát độ sáng tối của một bức ảnh qua biểu đồ ánh sáng

Với một bức ảnh đã chụp, khi xem lại ngay trên máy ảnh, hoặc trên phần mềm chỉnh sửa, qua biểu đồ chung RGB ta có thể dễ dàng nhận thấy bức ảnh sáng vừa, sáng yếu (thiếu sáng) hay sáng mạnh (thừa sáng).

• Nếu phần lớn hiển thị nghiêng về phía bên trái (khu vực ánh sáng yếu), bức ảnh đó là một bức ảnh đa phần tối màu, phần lớn màu sắc và các khu vực ánh sáng của ảnh đậm tối. Nếu ở sát mép trái có cột dọc cao hết chiều cao của biểu đồ, ảnh có các khu vực tối đen hoàn toàn (giá trị bằng 0).
• Nếu phần lớn hiển thị nghiêng về bên phải (khu vực ánh sáng mạnh), bức ảnh đó là một bức ảnh đa phần sáng màu, phần lớn màu sắc và các khu vực đều sáng mạnh. Nếu ở sát mép phải của biểu đồ có cột dọc cao hết chiều cao, ảnh có các khu vực chói sáng trắng hoàn toàn (giá trị bằng 255).
• Nếu phần lớn hiển thị nằm ở giữa chiều ngang biểu đồ, ảnh đa phần có ánh sáng trung bình, điều hòa, không sáng quá hay tối quá.
• Cách quan sát các màu cơ bản riêng biệt (đỏ, lục, lam) cũng tương tự như trên.

Từ quan sát này có thể điều chỉnh để chụp (hoặc chỉnh sửa) cho ảnh “đẹp hơn”.

Lưu ý 1: Ở đây tôi xin nhấn mạnh từ “đẹp hơn” vì tùy vào con mắt nghệ thuật của từng nhiếp ảnh gia hay mục đích của từng bức ảnh để điều chỉnh phù hợp, thể hiện tấm ảnh theo cách riêng của từng người. Ảnh quá thiếu sáng hoặc thừa sáng cũng không phải là một bức ảnh đẹp, mặt khác không phải bức ảnh nào có ánh sáng vừa phải đều ở giữa cũng là một bức ảnh đẹp, tất cả tùy thuộc vào từng bức ảnh (chủ thể, hậu cảnh, ánh sáng môi trường, phong cách đánh đèn, v.v…) và cách thể hiện cụ thể của từng người chụp.

Lưu ý 2: Mặc dù sử dụng cùng khái niệm và cách biểu diễn giống nhau, luôn có sự khác biệt ít nhiều giữa biểu đồ ánh sáng trên máy ảnh và các phần mềm chỉnh sửa ảnh trên máy tính, cũng như có sự khác biệt về tỷ lệ và cách hiển thị trong biểu đồ ánh sáng giữa các máy ảnh khác nhau. Bạn nên làm quen với máy ảnh cụ thể của mình để quan sát chính xác, rút kinh nghiệm sử dụng biểu đồ khi chụp ảnh.

Lưu ý 3: Các khu vực có độ sáng là 0 (đen hoàn toàn) và 255 (trắng hoàn toàn) đều bị mất hết chi tiết ảnh. Các khu vực sát với hai giá trị này cũng hầu như không còn chi tiết, hoặc rất mờ nhạt và mắt thường không thể quan sát được.

Trong ví dụ dưới đây (điều chỉnh trên vi tính, không phải chụp thật nhằm mục đích minh họa), nếu máy ảnh đặt ở chế độ tự động, hoặc ưu tiên khẩu độ hay tốc độ cửa chập – tức để máy tự quyết định độ sáng của ảnh chứ người chụp không chỉnh phơi sáng thủ công – việc ngắm chụp vào khu vực nào trong khuôn hình khi căn sáng là hết sức quan trọng.

Hình 4: Ảnh 1, do ngắm chụp vào khu vực có ánh sáng trung bình, máy hiểu là ánh sáng đã tốt nên ảnh có ánh sáng điều hòa.
Hình 5: Ảnh 2, do ngắm chụp vào khu vực ánh sáng mạnh (mái nhà màu vàng) nên máy hiểu là chủ thể quá sáng, nên tự động điều chỉnh cho ảnh tối đi, vì vậy các khu vực tối của chủ thể bị tối sẫm, gần như đen hoàn toàn, ảnh bị thiếu sáng nghiêm trọng với biểu đồ dồn về bên tay trái.
Hình 6: Ngược lại ở ảnh 3, do ngắm vào khu vực tối (khu vực lá cây hậu cảnh), máy điều chỉnh cho ảnh sáng hơn, kết quả là ảnh thừa sáng nghiêm trọng, biểu đồ dồn hết về bên tay phải.

Thông thường, để có một bức ảnh với ánh sáng điều hòa, đúng sáng chủ thể như ngoài thực tế (không tính tới các trường hợp chủ định tạo tương phản lớn), cần ngắm và căn sáng vào các khu vực có cường độ ánh sáng trung bình (tương đương 18% gray).

Như vậy, biết cách quan sát biểu đồ ánh sáng rất hữu ích với người chơi ảnh. Trong mọi trường hợp, các bạn nên chụp thử một số kiểu ảnh trước khi chụp chính thức, quan sát biểu đồ ánh sáng ảnh chụp thử và điều chỉnh phơi sáng đến khi có biểu đồ “đẹp” để có nhiều ảnh đẹp hơn. Các bạn cũng nhớ kết hợp sử dụng thiết bị đo sáng (light meter) hay tấm đo sáng xám (gray card) để có thể điều chính phơi sáng “đẹp nhất”.

Tóm lại, biểu đồ ánh sáng là một công cụ sẵn có trên máy hết sức tiện lợi, một trợ thủ phơi sáng đắc lực của mọi nhiếp ảnh gia nghiêm túc.

Lưu ý:

Một lưu ý đáng quan tâm đối với các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, nhất là những ai mới chuyển từ chụp phim sang chụp số, liên quan tới biểu đồ ánh sáng này là: Dữ liệu được sử dụng trên hầu hết thân máy DSLR, nếu không muốn nói là tất cả thân máy ở thời điểm hiện tại – để hiển thị biểu đồ histogram của bức ảnh là dữ liệu được trích xuất từ ảnh định dạng JPEG (dù chụp ở định dạng JPEG, kết hợp JPEG và định thô RAW, hay RAW 100%). Điều này có nghĩa là biểu đồ ánh sáng (histogram) biểu diễn các giá trị của ảnh sau khi đã được phần mềm trên thân máy chuyển tạm thời sang JPEG. Chúng ta đều biết, JPEG là định dạng ảnh nén bị mất dữ liệu, vì vậy, biểu đồ ánh sáng KHÔNG biểu diễn đúng với các giá trị của tệp tin ảnh thô RAW lưu trên máy, và làm nhiếp ảnh gia có thể đánh giá sai lệch ánh sáng, tông màu, dẫn tới các điều chính thiếu chính xác trong quá trình chụp tiếp theo. Một lời khuyên cho nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp số là nên sử dụng thiết bị đo sáng riêng biệt để đảm bảo độ chính xác phơi sáng!

VinaCamera.com 2008

TÌM HIỂU THÊM VỀ KHẨU ĐỘ MỞ (Aperture revisited)


APERTURE REVISITED

Rât nhiều người chơi ảnh nghiệp dư quan tâm tới hiệu ứng của việc thay đổi khẩu độ mở. VinaCamera.com có bài viết cung cấp thêm thông tin sau đây.

Khẩu độ mở (aperture) được biểu diễn bằng giá trị f/ – hay F-stop trong tiếng Anh. Giá trị f/ càng nhỏ thì khẩu độ mở càng lớn (sở dĩ như vậy vì giá trị f/ là một hệ số). Hình 1 cho thấy các giá trị f/ thường được sử dụng.

Hình 1: Khẩu độ mở biểu diễn bằng các giá trị F-stop. F càng nhỏ, khẩu độ càng lớn.

Trước tiên, ta hãy trở lại với vấn đề giá trị phơi sáng (exposure value / EV). Một bức ảnh được tạo nên bởi 3 yếu tố cơ bản là: (1) tốc độ của chập (shutter speed) – thường tính bằng phần của giây; (2) độ mở to nhỏ của lỗ điều tiết ánh sáng trên ống kính (aperture) – thường tính bằng giá trị f/ và (3) độ nhạy bắt sáng ISO của phim hay cảm biến đối với máy ảnh số. Kết hợp 3 yếu tố này lại ta được giá trị phơi sáng của một bức ảnh (xem thêm tại đây). Khẩu độ mở càng lớn thì ánh sáng lọt vào bản phim hay cảm biến càng nhiều và nếu giá trị tốc độ cửa chập và độ nhạy ISO là không đổi, khẩu độ mở càng lớn thì bức ảnh càng sáng.

Như vậy, tác dụng đầu tiên của khẩu độ mở là điều tiết ánh sáng nhiều hay ít cho một bức ảnh. Tuy nhiên, khẩu độ mở không chỉ ảnh hưởng tới mức độ sáng tối chung của ảnh mà còn ảnh hưởng tới các yếu tố khác, bao gồm:

Hình 2: Khẩu độ mở ảnh hưởng tới nhiều hiệu ứng cho bức ảnh

• Chiều sâu ảnh trường (khoảng nét giữa các chủ thể xa gần máy ảnh và điểm căn nét chính). Khẩu độ mở càng lớn (f/ càng nhỏ) thì ảnh càng có chiều sâu nét mỏng hơn. Nói cách khác, với khẩu độ mở càng lớn, các chủ thể cách điểm căn nét (trước và sau) càng có xu hướng mất nét lớn hơn. Khẩu độ mở nhỏ làm tăng chiều sâu ảnh trường, tạo điều kiện để các chủ thể xa điểm căn nét chính về phía trước và phía sau đều nét hơn. Khẩu độ mở nhỏ thường được sử dụng để chụp phong cảnh khi đòi hỏi toàn bộ bức ảnh có độ nét (tương đối) như nhau, trong khi đó, khẩu độ mở lớn thường được sử dụng để chụp chân dung hay đặc tả trong đó chỉ có người/ vật cần nêu bật mới nét còn hậu cảnh và tiền cảnh mờ để làm tăng sự nổi bật của chủ thể chính.

• Diện tích khu vực nét. Với khẩu độ mở lớn, xung quanh điểm căn nét chính (có cự ly ngang bằng với chủ thể chính tới máy ảnh) có xu hướng nhòa mờ, càng xa chủ thể căn nét chính càng mờ hơn. Ngược lại, khẩu độ mở nhỏ khiến mọi vật xung quanh điểm căn nét tăng độ nét. Như vậy, nếu chụp một nhóm người, ta cần giảm khẩu độ mở xuống (tăng giá trị f/) – lên khoảng 5.6-8 – để bảm đảm mọi người trong ảnh đều nét.

• Hiệu ứng boke (bokeh). Hiệu ứng boke là sự xuất hiện của những vòng tròng sáng nhòa xung quanh các điểm sáng ở hậu cảnh, theo thẩm mĩ thời nay, các vòng tròn sáng này càng nhòa mịn càng đẹp, tạo ánh sáng lung linh lấp lánh cho hậu cảnh. Khẩu độ mở càng lớn thì hiệu ứng boke càng lớn (tất nhiên còn tùy thuộc vào chất lượng từng loại ống kính).

• Cường độ sáng xung quanh tâm điểm. Với khẩu độ mở nhỏ, ánh sáng trên toàn bức ảnh có xu hướng điều hòa hơn (sáng như nhau ở các khu vực khác nhau). Khẩu độ mở lớn tạo sự khác biệt giữa tâm điểm của bức ảnh với khu vực xung quanh. Khi đặt ở khẩu độ mở lớn, khu vực trung tâm bức ảnh sáng hơn, trong khi đó khu vực quanh tâm điểm giảm dần ánh sáng (rất ít và phải để ý mới phát hiện được; thường rõ hơn khi chụp diện tích lớn), càng xa tâm điểm độ sáng của ảnh càng yếu hơn.

Hình 3: Khẩu độ mở thay đổi chiều sâu ảnh trường (F/16 mở tới F/1.4)

Với các ảnh hưởng này, việc điều chỉnh khẩu độ mở thực sự là một kỹ thuật khó, và càng khó hơn khi phải kết hợp với tốc độ cửa chập để tạo ra bức ảnh vừa đủ sáng, vừa có được các hiệu ứng khác mang tính nghệ thuật cho bức ảnh.

Các trường hợp thường cần khẩu độ mở lớn hơn (mở khẩu)
– Chụp trong điều kiện ánh sáng yếu
– Chụp chân dung
– Chụp đặc tả một chủ thể chính (người / vật)
– Tạo hiệu ứng xóa phông (hậu cảnh nhòa mờ)
– Tạo hiệu ứng boke
– Cần tăng tốc độ cửa chập để chống rung tay máy

Các trường hợp thường cần khẩu độ mở nhỏ hơn (khép khẩu)
– Chụp trong điều kiện ánh sáng mạnh
– Chụp nhóm người (càng nhiều người dàn hàng ngang hoặc đứng trước sau càng cần khép khẩu hơn)
– Chụp phong cảnh, kiến trúc
– Chụp tĩnh vật, quảng cáo cần mọi người/ vật đều nét

Ghi chú: Do các yêu cầu về kỹ thuật trong công nghệ sản xuất thấu kính và ống kính, ống kính có khẩu độ mở càng lớn, đặc biệt là duy trì được khẩu độ mở lớn trên toàn tiêu cự ở các ống zoom (tiêu cự thay đổi) mà vẫn cho hình ảnh đẹp thì giá thành càng cao, và càng đắt. Các ống kính có khẩu độ mở lớn luôn là niềm mơ ước của người chơi ảnh, dù là nghiệp dư hay chuyên nghiệp.

VinaCamera.com
2008-2010

BA YẾU TỐ CƠ BẢN TRONG NHIẾP ẢNH: KHẨU ĐỘ, TỐC ĐỘ VÀ ISO


Trong nhiều trường hợp của cuộc sống, có nhiều điều cơ bản nói đi nói lại mãi mà vẫn không thừa, ví như lời khuyên đi xe máy phải cẩn thận, hay ăn uống phải giữ gìn bởi cái miệng của con người ta đâu phải cái sọt rác để mà muốn vứt cái gì vào thì vứt. Trong nhiếp ảnh, nhất là đối với những người mới làm quen với máy ảnh ống kính rời gương phản xạ KTS (Digital SLR), ba yếu tố cơ bản tạo ra giá trị phơi sáng của một bức ảnh cần được nhắc đi nhắc lại, nghe đi nghe lại đến khi nào không cần nghĩ đến chúng nữa mới thôi, đến khi nào nghe lại mà không thấy chán mặc dù có thể đã thuộc lòng đến không cần nghe thêm một từ nào nữa.

Vậy VinaCamera.com xin nói lại nhé! Bạn nào muốn nghe thì xem tiếp, bạn nào chán rồi thì cầm máy lên chụp vài kiểu cho đỡ xì-chét vì những điều “biết rồi, khổ lắm nói mãi”.

Một bức ảnh được tạo ra bởi việc cho phơi sáng (expose) bản phim hay cảm biến ra ngoài ánh sáng (có hình ảnh muốn chụp) – vậy mới gọi là phơi sáng. Mỗi lần phơi sáng có một giá trị ánh sáng duy nhất, được gọi là giá trị phơi sáng – nghe như chuyện trẻ con học bài vậy 🙂 , trong tiếng Anh gọi là EV (exposure value). EV là giá trị phơi sáng của một bức ảnh – hay của một lần bấm máy. Mỗi bức ảnh chỉ có một giá trị phơi sáng duy nhất, được tạo ra bởi 3 yếu tố: Khẩu độ mở, Tốc độ cửa chập và Độ nhạy ISO.

Thế rồi sao? EV (giá trị phơi sáng) được tạo ra bởi 3 yếu tố cơ bản.

1. KHẨU ĐỘ MỞ(Aperture):

Là độ mở to nhỏ của lỗ điều tiết ánh sáng nằm trong ống kính.

Lỗ mở càng to thì ánh sáng lọt vào càng nhiều, và ngược lại, lỗ mở càng nhỏ thì ánh sáng lọt vào càng ít. Khả năng có thể mở to đến đâu của cái lỗ này phụ thuộc vào từng ống kính nhất định. Ống kính càng mở được to thì… đầu tiên là càng đắt tiền, và càng tạo cho nhiếp ảnh gia khả năng hoạt động linh hoạt hơn trong sáng tạo.

Để tính độ mở của lỗ điều tiết ánh sáng này (gọi là aperture trong tiếng Anh, và viết tắt là A), người ta dùng đơn vị gọi là f/stop – hay trong tiếng Việt gọi là “khẩu” cho nó ngắn gọn. Do đây là một đơn vị tính bằng hệ số, nên giá trị f/stop càng nhỏ (ví dụ f/1) thì lỗ mở càng lớn, còn giá trị f càng lớn, thì lỗ khép lại càng nhỏ (ví dụ f/22). Việc mở to lỗ ánh sáng ra – để nhiều ánh sáng lọt vào bản phim hay cảm biến quang – thường được gọi là “mở khẩu”, và thu nhỏ lỗ ánh sáng – để lượng ánh sáng đi qua lỗ vào phim/cảm biến giảm đi – được gọi là “khép khẩu”, hay “đóng khẩu”. Mở khẩu là giảm giá trị f/stop, khép/đóng khẩu là tăng giá trị f (Quả là lẩn thà, lẩn thẩn!). Giá trị f/stop của một ống kính ngày nay có thể nhỏ bằng 1 (f/1) hay thậm chí bằng 0.95 (f/0.95), tức là cái lỗ ấy cực cực lớn, nhưng chỉ đối với các loại ống kính sản xuất đặc biệt. Với các ống kính thông thường, kể cả chuyên nghiệp, khẩu mở tối đa thường chỉ ở f/2.8, đôi khi lớn tới f/2, f/1.8 hoặc f/1.4. Khẩu khép tối đa của một ống kính thường là f/22 hoặc f/32, đôi khi là f/64.

Các khẩu độ mở truyền thống của ống kính gồm (từ mở khẩu lớn tới nhỏ dần): f/1.4 – f/2 – f/2.8 – f/4 – f/5.6 – f/8 – f/11 – f/16 – f/22 – f32. Khoảng cách giữa khẩu nọ tới khẩu kế tiếp kia có giá trị bằng 1 stop, tức bằng 1 khẩu. Điều này có nghĩa là nếu đang ở f/1.4 khép/đóng khẩu vào f/2 là giảm đi 1 khẩu (với lượng ánh sáng giảm đi một nửa so với khẩu trước đó là f/1.4), từ f/2 khép vào f/2.8 lại giảm đi một khẩu nữa (lượng ánh sáng lại giảm đi 1 nửa so với f/2), f/2.8 khép xuống f/4, lại giảm đi một khẩu nữa (nửa lượng sáng của khẩu f/2.8 trước đó). Mỗi lần giảm như vậy gọi là giảm 1 khẩu. Từ f/1.4 khép xuống f/4 tức là giảm đi 3 khẩu. Cũng như vậy, nếu từ f/16 mở khẩu ra thành f/4 là tăng lên 4 khẩu. Giá trị giữa các mốc truyền thống từ f/1.4 đến f/32 như nêu trên đều hơn kém nhau 1 khẩu. “Khẩu” là đơn vị thống nhất để điều chỉnh và cả bàn luận về khẩu độ mở của ống kính và của một bức ảnh. Sau này, nhất là từ thời đại ảnh kỹ thuật số, máy ảnh kết hợp với các ống kính hiện đại hơn cho phép điều chỉnh tăng giảm với giá trị nửa hoặc một phần ba khẩu, ví dụ từ f/1.4 => f/1.6 => f/1.8 => f/2, giúp cho việc điều chỉnh khẩu độ mở có độ chính xác cao hơn (Từ f/1.4 đến f/2 là một khẩu, và f/1.4 đến f/1.6 là 1/3 khẩu).

Công năng của ống kính: Mỗi ống kính có giới hạn nhất định về khả năng mở khẩu và khép khẩu tối đa. Các ống kính cao cấp và đắt tiền cho phép mở khẩu rất lớn, giúp lượng ánh sáng vào ảnh lớn hơn, vì thế có thể chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng tốt hơn. Trên ống kính, giá trị khẩu độ mở thường được biểu diễn bằng các con số như 1:1.4 hay 1:3.5 (tức khả năng mở khẩu tối đa là f/1.4 hay f/3.5). Với các ống zoom (có khả năng thay đổi chiều dài tiêu cự giúp chụp xa gần hiệu quả) cũng có loại có khả năng mở khẩu tối đa và không đổi suốt dọc chiều dài tiêu cự, ví dụ ống Nikon 70-200mm f/2.8 có khả năng mở khẩu rộng f/2.8 cả ở tiêu cự 70mm cũng như ở tiêu cự dài hơn gấp gần 3 lần là 200mm. Các ống như vậy thường có giá thành và giá bán cao hơn rất nhiều so với các ống kính có khẩu độ mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự, như ống Nikon 18-135mm f/3.5-5.6 chỉ có thể mở rộng khẩu ở f/3.5 ở tiêu cự 18mm, còn khi kéo tiêu cự (kéo zoom) ra 135mm, ống chỉ cho phép mở khẩu tối đa ở f/5.6, tương đối hẹp và kém giá trị khi chụp với tiêu cự 135mm trong điều kiện thiếu sáng, và vì vậy, các loại ống có khẩu mở tối đa thay đổi theo chiều dài tiêu cự này có giá thành rẻ hơn (hay được định giá là rẻ hơn!).

Các tác dụng và hiệu ứng liên quan tới khẩu độ mở:

– Dĩ nhiên, khẩu độ mở có tác dụng điều tiết ánh sáng nhiều hay ít cho một bức ảnh. Mở khẩu càng lớn (chỉ số f/ càng nhỏ) thì càng nhiều ánh sáng, khép khẩu các nhỏ (chỉ số f/ càng lớn) thì càng ít ánh sáng vào ảnh. Tuy nhiên, kèm theo việc điều tiết ánh sáng, đóng mở khẩu độ ống kính còn có các hiệu ứng khác về quang học dưới đây.

– Khẩu độ mở càng lớn thì chiều sâu ảnh trường (depth of filed hay DOF) càng mỏng (***), và khép khẩu càng nhỏ thì chiều sâu ảnh trường càng dày, ảnh càng nét ở mọi khu vực trên bức ảnh.

– Mở khẩu lớn, do chiều sâu ảnh trường mỏng, sẽ làm các khu vực ngoài khu vực căn nét chính bị nhòa mờ (cả các chủ thể phụ trước và sau chủ thể chính), cũng như các chủ thể phụ nằm ngang hàng với chủ thể chính nhưng ở rìa của khuôn hình.

– Khẩu mở lớn, rìa của ảnh có thể có các hiệu ứng tối dần, nhất là độ tối có thể dễ quan sát được ở các góc và mép ảnh gọi là hiện tượng tối góc/ mép ảnh (vignetting).

– Nhiếp ảnh gia đóng mở khẩu độ mở của ống kính, ngoài tác dụng tăng giảm lượng ánh sáng cho ảnh, còn có tác dụng tạo hoặc triệt tiêu các hiệu ứng nét dày/mỏng, tối góc ảnh hay sáng đều trên ảnh, cũng như tạo các vòng tròn sáng mịn và mờ ở hậu ảnh của bức ảnh – gọi là bokeh (đọc là bô-kê) và thường được vận dụng làm các công cụ giúp nhiếp ảnh gia đạt được mong muốn về độ nét, ánh sáng giữa các vùng trên ảnh, tạo giá trị nghệ thuật cho bức ảnh, ví dụ như chụp chân dung, để thu hút chú ý của người xem ảnh vào chủ thể chính được chụp (người, vật), nhiếp ảnh gia thường mong muốn mở khẩu tối đa để làm nhòa mờ các vùng ngoài, trước/ sau chủ thế.

2. TỐC ĐỘ CỬA CHẬP (Shutter Speed):

Là tốc độ đóng mở của tấm chắn sáng giữa lỗ điều tiết ánh sáng trong ống kính và bản phim hay cảm biến ảnh số.

Nếu bạn đọc những điều nêu trên về khẩu độ mở của ống kính đã thấy tương đối phức tạp, thì công nghệ máy ảnh còn phức tạp hơn nhiều do khẩu độ mở không phải là yếu tố duy nhất điều chỉnh ánh sáng cho ảnh. Ngoài việc điều tiết ánh sáng bằng khẩu độ mở, máy ảnh SLR/DSLR còn có một tấm chắn giữa ống kính và bản phim/ cảm biến ảnh số để ngăn ánh sáng. Tấm chắn này được gọi là cửa chập (hay shutter trong tiếng Anh) có tác dụng mở ra rồi đóng vào như cũ để khống chế thời gian phơi sáng của phim hay cảm biến số. Tốc độ mở rồi đóng lại của tấm chắn này thường vô cùng nhanh và được tính bằng một phần của giây (có thể là phần chục, phần trăm hay phần nghìn của giây). Cũng do mở rồi lại đóng ngay lại nên tấm này được gọi là cửa chập. Ở vị trí không chụp bình thường, của này luôn đóng để ngăn ánh sáng không xuyên tới phim hay cảm biến số.

Khi nhiếp ảnh gia bấm chụp một kiểu ảnh, tấm chắn sáng này – tức cửa chập – mở ra (rất nhanh) rồi lại đóng ngay lại (cũng rất nhanh), vì vậy chỉ cho phép phim hay cảm biến số tiếp xúc với ánh sáng trong một khoảnh khắc cực ngắn. Thời gian ngắn ngủi này được gọi là thời gian phơi sáng (tiếp xúc với ánh sáng) của một bức ảnh.

Các giá trị tốc độ cửa chập thường thấy (được tính bằng giây và phần của giây – tiếng Anh giây là second và viết tắt là s): 1s, 1/2s, 1/4s, 1/8s, 1/15s, 1/30s, 1/60s, 1/125s, 1/250s, 1/500s, 1/1000s, v.v… Ở đây có thể dễ dàng nhận thấy các mốc tính được cách nhau một khoảng (xấp xỉ) gấp đôi, hoặc chia đôi.

Điều thú vị và cả đáng kinh ngạc là các nhà chế tạo máy ảnh đã tính toán sao cho giá trị phơi sáng (EV) giữa các giá trị tăng giảm cửa chập theo cách nhân đôi hoặc chi đôi thời gian ĐÚNG BẰNG giá trị tăng giảm giữa các khẩu độ mở của ống kính, tức là chênh nhau 1 khẩu độ (xét về giá trị ánh sáng). Và vì vậy, khi tính giá trị ánh sáng được điều tiết (hay khống chế) bởi tốc độ cửa chập, người ta cũng tính bằng đơn vị khẩu (stop). Nếu tốc độ cửa chập tăng lên gấp đôi (tức một khẩu) thì lượng ánh sáng tiếp xúc với bản phim/ cảm biến số giảm đi một nửa (tức giảm 1 khẩu), và nếu tốc độ của chập giảm đi một nửa (tức một khẩu), giá trị ánh sáng sẽ tăng lên gấp đôi (tức tăng 1 khẩu).

Ngoài tác dụng điều tiết lượng ánh sáng để tạo phơi sáng phù hợp cho bức ảnh, tốc độ cửa chập còn là công cụ để tạo ra các hiệu ứng về mặt thời gian cho bức ảnh. Nếu muốn “bắt chết” một khoảnh khắc của một chủ thể đang chuyển động, một giá trị tốc độ của chập cao sẽ giúp nhiếp ảnh gia làm được điều này vì trong khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi của chập mở ra rồi đóng ngay lại với tốc độ hết sức cao/nhanh (ví dụ 1/1250s), sự di chuyển của chủ thể sẽ là không đáng kể và hình ảnh sẽ được “dừng lại” trong khuôn hình của nhiếp ảnh gia. Ngược lại, khi muốn ghi nhận các chuyển động với tính chất thời gian (ví dụ như tia sáng của pháo hoa từ lúc đạn pháo hoa ra khỏi nòng súng tới lúc bay lên cao và nổ bung với những ánh sáng đủ màu), nhiếp ảnh gia có thể điều chỉnh cho tốc độ của chập (mở/đóng) chậm hơn nhiều (ví dụ 1/2s, 1s, hay 3s) để toàn bộ “vết” pháo hoa được ghi lại trong khuôn hình.

Tốc độ cửa chập tạo ra các ảnh hưởng lớn trên ảnh đối với các chủ thể chuyển động, cũng như việc cầm máy không chắc, để run tay khi chụp. Ảnh chụp run tay với thời gian của chập mở ra lâu (tốc độ cửa chập mở/đóng chậm) sẽ làm hình ảnh bị nhòa vào nhau (mong muốn hay không mong muốn). Hiểu và sử dụng có chủ đích tốc độ cửa chập cũng sẽ giúp nhiếp ảnh gia chủ động tạo ra các hiệu ứng nghệ thuật trên bức ảnh.

3. ĐỘ NHẠY BẮT SÁNG (ISO):

Là độ nhạy bắt ánh sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số.

Công nghệ máy ảnh không chỉ dừng lại ở 2 yếu tố cơ bản đầu tiên là khẩu độ mở và cửa chập, mà còn càng trở nên phức tạp với khái niệm độ nhạy của bản phim (ngày nay được thay thế bằng cảm biến ảnh số trên máy ảnh DSLR).

Để hình ảnh được ghi lại trên phim, bản phim cần có khá năng bắt ánh sáng và chuyển hóa tất cả thành các giá trị nhất định (về hóa học) để khi đem tráng phim và rửa ảnh sẽ tạo ra độ sáng tối (đen/trắng) và màu sắc (phim màu) của hình ảnh. Tương tự như vậy, cảm biến ảnh số ngày nay cũng có khả năng ghi nhận ánh sáng và màu sắc , chỉ khác là sẽ chuyển thành các giá trị số hóa để ghi lại hình ảnh.

Độ nhạy bắt sáng của bản phim hay cảm biến ảnh số có khả năng giúp nhiếp ảnh gia điều tiết phơi sáng của một bức ảnh. Độ nhạy này được tính bằng giá trị ISO (trước đây là ASA hoặc DIN đều cùng như nhau). ISO càng cao thì độ nhạy (khả năng bắt sáng nhanh) càng cao, giúp cho việc tăng tốc độ cửa chập lên cao (tức giảm thời gian phơi sáng) với giá trị lớn hơn, giúp cho việc chụp ảnh trong điều kiện ánh sáng yếu hiệu quả hơn.

Các giá trị ISO thường được sử dụng là: ISO 100, ISO 200, ISO 400, ISO 800, ISO 1600, ISO 3200, ISO 6400, …

Ở đây lặp lại điều thú vị như trên: Giá trị ISO đã được tính toán sao cho tương đương với việc tăng lượng ánh sáng lên gấp đôi hoặc giảm lượng ánh sáng xuống còn một nửa của các giá trị kế tiếp. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng giảm ISO cũng có thể được tính theo đơn vị khẩu. ISO 200 so với ISO 100 chênh nhau 1 khẩu, ISO 800 sẽ sáng hơn ISO 200 là 2 khẩu, v.v…

Một điều lưu ý duy nhất khi điều chỉnh ánh sáng cho ảnh dựa vào ISO là: Do công nghệ chế tạo, ISO càng lớn có ưu điểm bắt sáng càng nhạy nhưng lại gây ra càng nhiều nhiễu (noise) cho hình ảnh ghi nhận, cả ở phim và cảm biến ảnh số (ở phim là do để bắt sáng nhạy hơn thì các hạt hóa chất phải to hơn, ở cảm biến ảnh số do tốc độ bắt sáng lớn hơn thì càng bị “rơi vãi” nhiều “hạt ánh sáng hơn” – đó là VinaCamera.com xin tạm diễn đạt nôm na như vậy, xin các bạn đừng bắt bẻ về khoa học 🙂 . Chính vì điều này, trong các trường hợp chụp ảnh trong điều kiện thiếu sáng, sau khi đã tăng hết khả năng mở khẩu và giảm tốc độ tới ngưỡng cho phép, nhiếp ảnh gia mới phải nhờ cậy tới khả năng tăng ISO – với việc hiểu rằng ISO cao ảnh có khả năng càng bị nhiễu cao, làm giảm chất lượng ảnh, nhất là khi muốn phóng to hình ảnh sau này. ISO là yếu tố cuối cùng nhiếp ảnh gia phải vận dụng để tăng độ sáng của ảnh. Ghi chú: Với công nghệ hiện nay, các nhà chế tạo ngày càng cho ra đời nhiều cảm biến ảnh số (photo sensor) có độ nhiễu thấp ở ISO cao. Để biết được “khả năng chịu đựng” nhiễu của một máy ảnh cụ thể, các bạn cần thử nghiệm ở các ISO khác nhau và chịu khó đọc các đánh giá của giới chuyên nghiệp, từ đó sử dụng phù hợp và tự tin với yếu tố độ nhạy ISO trên máy ảnh của mình.

4. TƯƠNG TÁC GIỮA KHẨU ĐỘ MỞ – TỐC ĐỘ CỬA CHẬP – ISO

Tăng tăng, giảm giảm – tăng giảm, giảm tăng. Câu chuyện về 3 yếu tố cơ bản dường như chỉ là câu chuyện dài xoay quanh việc tăng và giảm các yếu tố này để tạo ra một bức ảnh có ánh sáng đẹp và chất lượng cao. Còn việc tăng giảm thế nào, cái nào và khi nào nên cao, khi nào nên thấp phụ thuộc chủ yếu vào kinh nghiệm, con mắt nhà nghề và tay máy, cũng như các thủ pháp nghệ thuật với sự sáng tạo không giới hạn của nhiếp ảnh gia.

Tuy vậy, VinaCamera.com cũng xin chỉ ra một vài mối quan hệ và hiệu ứng cơ bản trong cái guồng tăng giảm này như sau.

– Một bức ảnh, dù đẹp hay xấu, chỉ có một giá trị phơi sáng DUY NHẤT, hy vọng là giá trị tối ưu nhất với ý đồ thể hiện hình ảnh của người chụp. Để tạo ra một giá trị phơi sáng nhất định (mà bạn cho là phù hợp), bạn sẽ phải tăng giảm 3 yếu tố cơ bản phù hợp trong từng tình huống và mong muốn cụ thể. Nếu mong muốn giá trị phơi sáng là không đổi, tăng yếu tố này sẽ phải giảm yếu tố kia để ảnh không quá sáng và không quá tối.

– Điều may mắn là các yếu tố trên đều được tính toán với một đơn vị thống nhất là “khẩu”: Tăng một khẩu của yếu tố này sẽ phải giảm một khẩu của yếu tố kia để giá trị phơi sáng là không đổi – tức giữ nguyên độ sáng của bức ảnh.

VinaCamera.com
2008-2010

KHÁI NIỆM CƠ BẢN TRONG NHIẾP ẢNH VÀ ẢNH KỸ THUẬT SỐ


Trong bài viết này, VinaCamera.com giới thiệu các khái niệm cơ bản trong nhiếp ảnh và ảnh số (Basic concepts in photography and digital photography). Bài viết sẽ thường xuyên được bổ sung và cập nhật. Để các bạn tiện theo dõi trên máy ảnh số hiện chưa được Việt hóa, VinaCamera.com sẽ giải thích kèm các thuật ngữ tiếng Anh.

Cửa chập (shutter):
Là mành chắn được đóng mở cho phép ánh sáng lọt qua để đi tới phim hay bộ cảm biến khi bấm máy chụp. Khoảng thời gian mành mở để ánh sáng lọt (qua mành) vào phim hay bộ cảm biến nhận ánh sáng đối với máy ảnh số – cũng chính là thời gian phơi sáng của phim hay bộ cảm biến (exposure time) – được điều chỉnh bởi tốc độ cửa chập (shutter speed) và thường được tính bằng giây và phần của giây, ví dụ 1 giây, 1/60 (một phần 60 của giây), 1/3200 (một phần 3200 của giây). Tốc độ cửa chập càng nhanh cho phép chụp được các đối tượng di chuyển nhanh mà không bị nhòe hình do “dừng” được hình ảnh trong một khoảnh khắc rất nhỏ, ví dụ để “dừng” được chuyển động của một con chim đang bay, tốc độ cửa chập phải đạt được tối thiểu từ 1/1250 đến 1/1600 giây mới đảm bảo không bị nhòe. Tốc độ cửa chập càng nhanh đòi hỏi ánh sáng càng mạnh mới đảm bảo ảnh không bị quá tối.

Khẩu độ mở (apature):
Là lỗ lọt sáng nằm trên ống kính của máy ảnh. Độ to nhỏ của khẩu độ được điều chỉnh bằng thông số f (f-number), ví dụ f/2.8 hay f/32, và phụ thuộc khả năng của ống kính. Các khẩu độ phổ biến gồm f/1.4, f/2, f/2.8, f/4, f/5.6, f/8, f/11, f/16, and f/22. Lưu ý: thông số f này càng nhỏ thì độ mở của lỗ lọt sáng càng lớn, ví dụ f/5.6 cho lỗ lọt sáng lớn hơn so với f/8, như vậy, f/5.6 cho nhiều ánh sáng lọt qua hơn so với f/8 – đây là cánh tính hay làm nhiều người nhầm lẫn về khẩu độ mở. Các ống kính càng tốt (và càng đắt tiền do đòi hỏi công nghệ sản xuất cao hơn) cho phép mở khẩu độ càng to, hiện nay hãng Leica đã sản xuất ống kính thông thường với độ mở lên tới f/0.95. Khẩu độ mở to (thông số f nhỏ) cho phép ánh sáng lọt vào phim nay bộ cảm biến nhiều hơn, tạo khả năng tăng tốc độ cửa chập (shutter speed) giúp đảm bảo hình không bị nhòe (do rung tay hay vật chuyển động), nhất là trong các môi trường ánh sáng yếu mà vẫn bảo đảm ánh sáng của ảnh. Tuy nhiên, khẩu độ mở còn chi phối chiều sâu của ảnh (depth of field): Khẩu độ mở càng to càng làm giảm chiều sâu của ảnh.

Căn nét / lấy nét (focus):
Điều chỉnh ống kính (nhiều khi là cả vị trí của máy ảnh) để căn chỉnh tạo hình ảnh sắc nét trên phim hay bộ cảm biến. Ở một số máy ảnh, khi điều chỉnh, vị trí của phim hay bộ cảm biển cũng di chuyển để tạo độ nét. Lưu ý: có nhiều người còn gọi việc này là “canh nét”.

Tiêu điểm (focal point):
Là điểm trên trục quang học (của ống kính) ở đó các tia sáng (sau khi đã đi qua các thấu kính) tạo thành hình ảnh sắc nét của đối tượng được chụp ảnh. Việc điều chỉnh ống kính (và vị trí của máy ảnh) để hình ảnh sắc nét nằm trên phim hay bộ cảm biến gọi là lấy/căn/canh nét.

Tiêu cự (focal length):
Khoảng cách giữa bề mặt của phim (hay bộ cảm biến nhận sáng ở máy ảnh số) tới trung tâm quang học của ống kính (gồm hệ thấu kính). Tiêu cự thường được tính bằng milimet (mm) và được ghi trên ống kính. Đối với định dạng phim (kích cỡ cảm biến toàn khổ) 35mm, tiêu cự ở 50mm được coi là tiêu chuẩn (normal, thường được đọc là nóc-man – ở tiêu cự này hình ảnh qua ống kính sát thực với hình ảnh nhìn thông thường qua mắt người nhất, và cho độ chính xác cao nhất). Các tiêu cự ngắn hơn 50mm được gọi là góc rộng (wide) và các tiêu cự dài hơn 50mm có thể được gọi là lớn hay tê-lê (tele). Ở cùng một khoảng cách giữa máy ảnh và đối tượng cần chụp, ống kính góc rộng cho hình ảnh rộng hơn (phù hợp với chụp một nhóm người hay toàn cảnh trong nhà, v.v…) còn ống tele giúp chụp được đối tượng to hơn trong ảnh. Ghi chú: Việc sản xuất các ống tele có khẩu độ mở lớn (f-number nhỏ) đòi hỏi kỹ thuật cao, nên các ống kính này rất đắt).

Ống phóng và ống cố định (zoom lens & fixed lens):
Các ống kính có khả năng thay đổi tiêu cự gần xa được gọi là các ống zoom. Các ống chỉ có một tiêu cự duy nhất gọi là ống cố định (fixed lens / prime lens). Các chỉ số này thường được ghi trên trên ống kính hoặc trên thân máy (máy liền ống kính) với chỉ số tiêu cự nhỏ nhất tới lớn nhất kèm ký hiệu X (đọc là nhân), ví dụ 17-50mm, 18-135mm hay 12x. Ghi chú: Thuật ngữ tiếng Việt “phóng” và “cố định” ở đây chỉ được dùng để giải thích; trên thực tế ở Việt Nam, người chơi ảnh thường sử dụng thuật ngữ vay mượn trong tiếng Anh và gọi là ống zoom (đọc là dum) và ống fixed (đọc là phích).

Tỷ lệ phóng quang học và kỹ thuật số (optical zoom & digital zoom):
Tỷ lệ phóng quang học (optical zoom) là khả năng phóng to hay thu nhỏ hình ảnh đối tượng được chụp ở cùng một khoảng cách từ máy ảnh tới đối tượng trên ảnh chụp được tạo ra qua điều chỉnh ống kính (hệ thống thấu kính bên trong ống kính). Đối với các máy ảnh số, việc phóng to thu nhỏ này còn có thể được thực hiện bằng cách sử dụng tính năng zoom kỹ thuật số (digital zoom) để phóng to một phần hình ảnh thu nhận được qua ống kính sao cho bằng với kích thước toàn bộ của khuôn hình. Tưởng tượng đơn giản, bạn có một hình to bằng khổ giấy A4, bạn cắt lấy một góc phần tư của ảnh và đem ra hàng photocopy phóng to lên gấp 4 lần sẽ được một hình to bằng khổ giấy A4 với những chi tiết đã chọn to hơn trước gấp 4 lần. Việc phóng to như vậy thường làm giảm chi tiết và chất lượng của ảnh. Việc làm này cũng có thể thực hiện trên máy tính mà không cần tính năng zoom số của máy ảnh. Vì vậy, khi mua máy ảnh, người ta thường quan tâm tới tỷ lệ phóng to quang học hơn là phóng to kỹ thuật số. Ghi chú: Cũng như trên, các thuật ngữ phóng to thu nhỏ ở đây được dùng chủ yếu để giải thích, trên thực tế ở Việt Nam, phần lớn mọi người đều sử dụng từ vay mượn là “zoom” với các cách nói như “dum” ra, “dum” vào hay “dum” to, “dum” nhỏ.

Chế độ căn nét (focus mode):
Chế độ điều chỉnh ống kinh để căn nét cho hình ảnh. Thông thường có hai loại là căn nét thủ công bằng tay (manual focus) hoặc căn nét tự động (auto focus). Ở chế độ căn nét tự động, nhiều hãng máy ảnh còn phân biệt giữa căn nét cho các vật đứng im và các vật chuyển động.

Chiều sâu ảnh trường (depth of field – DOF):
Đối với một số trường hợp, do sử dụng ống kính hay khoảng cách giữa các đối tượng được chụp, khi căn nét một đối tượng thì các đối tượng khác ở trước và sau đối tượng căn nét bị nhòe đi, những trường hợp như vậy sẽ cho hình ảnh gọi là nông về chiều sâu của ảnh; trong những trường hợp khác, các đối tượng trước và sau đối tượng được căn nét vẫn tương đối nét hoặc thậm chí có độ nét ngang bằng với đối tượng căn nét. Trong các trường hợp trình bày sau này, ảnh có chiều sâu lớn hơn. Hiệu ứng này được tạo ra bởi nhiều yếu tố khác nhau bao gồm tiêu cự (focal lengh), khẩu độ mở ống kính (f-number), cự ly chụp (khoảng cách từ máy ảnh tới đối tượng chụp). Khẩu độ mở càng lớn, tiêu cự càng dài và cự ly chụp càng ngắn thì chiều sâu của ảnh càng giảm, và ngược lại. So với ống kính tiêu chuẩn (normal lens), ống góc rộng cho chiều sâu ảnh lớn hơn nếu đặt ở khẩu độ mở (f-number) như nhau, còn các ống tele sẽ cho chiều sâu nông hơn.

Đây là một khái niệm quan trọng trong nhiếp ảnh, nhất là trong việc tạo tính nghệ thuật cho một bức ảnh. Một cách đơn giản hơn để hiểu khái niệm này là khoảng cách giữa các đối tượng (đối tượng lấy nét, đối tượng trước và sau đối tượng lấy nét) có độ nét chấp nhận được trong một bức ảnh. Khoảng cách này càng xa thì ảnh càng có chiều sâu. Ảnh phong cảnh thường có chiều sâu lớn để mọi vật đều nét (nhìn rõ chi tiết), ảnh chân dung thường có chiều sâu nông để người xem tập trung vào người được chụp (hay khuôn mặt) hơn là các cảnh vật xung quanh (thường nhòe đi để không gây chú ý cho người xem).

Bô-kê (bokeh / boke):
Bô-kê là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Nhật có nghĩa là “nhòa mờ” (blur), được sử dụng trong nhiếp ảnh ngày nay để mô tả hiện tượng nhòa mờ nhưng mịn của vùng xung quanh điểm được căn nét trong khuôn hình một bức ảnh có chiều sâu ảnh trường nông do hiệu ứng của ống kính tạo ra. Bô-kê tạo cho người xem cảm giác mịn màng dễ chịu ở vùng xung quanh điểm lấy nét và thường được sử dụng để tạo tính nghệ thuật trong nhiếp ảnh. Đây là khái niệm khó đo lường và thường được đánh giá bằng mắt thường. Chất lượng bô-kê có thể được đánh giá bằng các vòng tròn ánh sáng nhòa mờ, mịn và phân bố ánh sáng đều (hơn là chỉ tập trung sáng ở đường viền của mỗi hình tròn) xung quanh các điểm sáng ngoài vùng nét trong bức ảnh. Các ống kính có nhiều mảnh thép tạo lỗ lọt sáng (apature) hoặc các mảnh này cắt cong sẽ tạo được hiệu ứng các hình tròn mờ mịn tốt hơn và cho chất lượng bô-kê đẹp hơn. Các ống kính có khẩu độ mở lớn hơn (f-number nhỏ hơn) có khả năng giảm chiều sâu và tạo bô-kê đẹp hơn.

ISO (International Organization for Standardization):
Đơn vị tính độ nhạy của phim hay của bộ cảm biến nhận ánh sáng ở máy ảnh số do Tổ chức tiêu chuẩn thế giới qui chuẩn. Độ nhạy ISO ở các máy ảnh số thường được tính từ 80 tới 25000 và càng ngày càng cao hơn. Đối với phim nhựa truyền thống, độ nhạy được qui định ở loại phim, ví dụ phim ISO100, ISO400; đối với máy ảnh số, có thể thay đổi ISO thông qua chức năng điều chỉnh ISO trên máy. Máy ảnh loại tốt cho phép điều chỉnh ISO cao hơn. Độ nhạy ISO càng lớn cho phép giảm thời gian lộ sáng (phơi sáng) – tức là tăng tốc độ cửa chập (shutter speed). Tuy nhiên, ISO càng lớn thường làm cho ảnh càng bị nhiễu (noise) nhiều hơn, khi phóng to bị rạn và sần. Trong điều kiện ảnh sáng tốt, nên để ISO thấp nhất có thể. Các cách tính khác đối với phim nhựa bao gồm ASA (American Standards Association – Hội tiêu chuẩn Hòa Kỳ) và DIN (Deutsches Institut für Normung – Viện tiêu chuẩn Đức). * Đính chính: ISO là của tổ chức độc lập có tên gọi là ISO (đọc là: / ai-xâu /), không phải là tên tắt của tổ chức như đã nêu trên. Thành thật xin lỗi quý độc giả về sự nhầm lẫn này. Liên kết tới tổ chức ISO: http://www.iso.org/iso/home/about.htm

Phơi sáng (exposure):
Một pô ảnh (gốc từ pose trong tiếng Pháp – còn gọi chệch đi là “bô”; tiếng Anh là exposure) phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Về ánh sáng, một pô ảnh là kết quả của sự kết hợp các yếu tố tốc độ cửa chập (shutter speed), khẩu độ mở (f-number) và độ nhạy ISO. Ba yếu tố này sẽ được kết hợp tăng giảm từng yếu tố theo ý muốn (và nhiều khi là ngoài ý muốn) của nhiếp ảnh gia để đạt được hiệu ứng ánh sáng tối ưu so với mong muốn cho bức ảnh. Ở cùng một tốc độ của chập, khẩu độ mở càng lớn và ISO càng cao thì ảnh càng sáng; ở cùng một khẩu độ mở, tốc độ càng chậm và ISO càng cao thì ảnh cáng sáng; ở cùng một chỉ số ISO, tốc độ cửa chập càng chậm và khẩu độ mở càng lớn thì ảnh cũng càng sáng. Để làm cho bức ảnh tối đi, bạn có thể tăng tốc độ cửa chập, giảm khẩu độ mở hoặc hạ chỉ số ISO (hoặc kết hợp cả ba). Lưu ý, tỷ lệ giữa các yếu tố tốc độ cửa chập, khẩu độ mở và ISO còn ảnh hưởng tới nhiều hiệu ứng của bức ảnh như chiều sâu ảnh trường, độ nhiễu, v.v…

Hiện tượng thiếu sáng ở góc ảnh (vignet):
Underexposure of image corners produced deliberately by shading or unintentionally by inappropriate equipment, such as unsuitable lens hood or badly designed lens. A common fault of wide-angle lenses, owing to reflection cut-off, etc. of some of the very oblique rays. May be caused in some long-focus lenses by the length of the lens barrel. Hiện tượng góc ảnh bị thiếu sáng (under-exposure) do người chụp cố ý tạo ra hoặc xuất hiện ngoài mong muốn do sử dụng các thiết bị không phù hợp như ống kinh kém chất lượng hay vành chắn ống kính (lens hood) không thích hợp. Hiện tượng này cũng thường xảy ra ở các ống kích góc rộng do một phần của chùm tia sáng qua ống kính không được phản xạ đầy đủ trên phim hay cảm biến. Nhiều nhiếp ảnh gia đã tận dụng hiện tượng này để tạo tính nghệ thuật đặc biệt cho các bức ảnh có độ tối và mờ ở góc và viền ngoài của ảnh.

Bù phơi sáng (exposure compensation):
Bù phơi sáng là một khái niệm của nhiếp ảnh kỹ thuật số. Hình ảnh được ghi nhận ở một máy ảnh KTS là kết quả của các tính toán được lập trình trước trên máy. Căn cứ vào chế độ phơi sáng (với các yếu tố tốc độ cửa chập, khẩu độ mở và ISO), máy ảnh KTS sẽ tính toán ánh sáng cho bức ảnh, ví dụ ở chế độ ưu tiên tốc độ của chập (shutter priority), sau khi được đặt ở một tốc độ nhất định, máy sẽ tính toán khẩu độ mở thích hợp (theo lập trình trên máy) để cho ra một bức ảnh có ảnh sáng tốt nhất.

Tuy nhiên, trong nhiều trường khợp khác thường như nguồn sáng phân bố không đều, hậu cảnh quá sáng hoặc quá tối ảnh hưởng tới toàn bộ cảnh chụp, máy ảnh KTS sẽ đo sáng thiếu hiệu quả, dẫn đến ảnh quá sáng hoặc quá tối. Để khắc phục điều này, người chụp có thể ghi chép lại các thông số đo sáng tự động của máy, sau đó chuyển sang chế độ cơ hoàn toàn (Manual / M) và điều chỉnh các yếu tố phơi sáng tăng giảm theo ý mình. Tuy nhiên, làm như vậy rất mất thời giờ. Cách đơn giản hơn là tận dụng chức năng bù phơi sáng có ở phần lớn các máy KTS, và ở tất cả các máy DSLR. Với chức năng này, máy vẫn đặt ở chế độ nhất định và người chụp chỉ cần điều chỉnh chỉ số bù phơi sáng (EV +/-) để làm cho bức ảnh sáng hơn hoặc tối hơn so với những tính toán đo sáng của máy. Một trong những ứng dụng phổ biến của chức năng bù phơi sáng là tăng sáng của ảnh trong điều kiện hậu cảnh quá sáng. Trong trường hợp như vậy, nguồn sáng đằng sau đối tượng muốn chụp quá sáng làm, làm cho máy bị đánh lừa, tính toán ảnh tối đi, làm đối tượng cần chụp trở nên quá tối. Để đối tượng cần chụp sáng và rõ chi tiết hơn, cần tăng bù phơi sáng (EV +).

Gói phơi sáng (exposure bracketing):
Để điều chỉnh bù phơi sáng, người chụp cần điều chỉnh phơi sáng +/- (thông thường là vừa ấn một nút “bù phơi sáng” và vặn tiến lui một bộ phận nào đó trên thân máy). Với những khoảng khắc quan trọng, nhiếp ảnh gia thường chụp một lúc 3 bức liền, một bức đúng như máy ảnh tính toán, một bức bù phơi sáng cộng (sáng hơn) và một bức bù phơi sáng trừ (tối hơn). Việc làm này gọi là gói phơi sáng (bracketing). Tuy nhiên, hiện nay, nhiều máy ảnh DSLR có chức năng gói phơi sáng tự động nhanh và tiện lợi hơn nhiều so với điều chỉnh từng bức ảnh.

Với chức năng này, nhiếp ảnh gia có thể chụp liền một lúc (thông thường) 3 bức ảnh, một bức ở chế độ ánh sáng do máy đã đo đạc, một bức ở chế độ cộng bù sáng và một bức ở chế độ trừ bù sáng (tỷ lệ cộng trừ thường ở 1/3 EV). Để sử dụng chức năng này, bạn chỉ cần vừa bấm và giữ một nút gói phơi sáng (BKT) và nhấn chụp. Máy sẽ tự động chụp liền 3 kiểu 0 +/- EV để bảo đảm cho ra một bức có ánh sáng tối ưu nhất.

Cân bằng trắng (white balance – WB):
Một chức năng của các máy ảnh (và máy quay video) kỹ thuật số giúp máy nhận biết đúng các màu sắc khác nhau qui từ màu trắng chuẩn khi cân bằng với các màu khác trong các môi trường ánh sáng khác nhau. Chức năng cân bằng trắng giúp máy nhận biết thế nào là màu trắng chuẩn để từ đó định nghĩa các màu sắc khác đúng (hay gần đúng) với mắt người nhận biết. Chức năng này còn được nhiều nhiếp ảnh gia vận dụng để tạo các hiệu ứng màu sắc mong muốn. Các chế độ mặc định thường thấy trên các máy ảnh số ngày nay là: tự động cân bằng trắng (auto), đèn dây tóc hay đèn đỏ (incandescent/tungsteng), đèn tuýp hay đèn nê-ông (fluorescent/neon), trời nắng (sunlight), trời râm (cloudy), trong bóng râm(shade), đèn ảnh (flash), hay theo nhiệt độ màu Kelvin (K).

JPEG hay JPG (đọc là: djây-péc-g):
Là định dạng ảnh nén kỹ thuật số do Hiệp hội báo chí và nhiếp ảnh qui định. Định dạng JPEG/JPG là định dạng được dùng phổ biến trên các máy ảnh kỹ thuật số và cũng là định dạng phổ biến nhất trên internet ngày nay. Ưu điểm của định dạng này là giúp tạo được hình ảnh số với kích cỡ tệp tin (file size) nhỏ. Tuy nhiên, nhược điểm chính của định dạng này là làm mất màu sắc và cả chi tiết (lossy) do phải nén nhỏ lại. Khi chụp ảnh kỹ thuật số, để bảo đảm thu nhận đầy đủ màu sắc và chi tiết lưu vào tệp ảnh, luôn luôn nên để ảnh lớn tối đa mà máy ảnh kỹ thuật số cho phép do càng nén nhỏ thì ảnh càng bị mất nhiều màu sắc và chi tiết. Tuy nhiên, nếu dung lượng thẻ nhớ không cho phép, người chụp có thể giảm kích cỡ ảnh theo nhu cầu sử dụng của mình như sử dụng để hiển thị trên máy tính hay để in ảnh. Ảnh càng lớn thì khả năng phóng to (cả trên màn hình vi tính và in ảnh trên giấy ảnh) không bị rạn vỡ chi tiết và nhòe màu càng cao. Trên hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số, các kích cỡ mặc định thường được ký hiệu L / Large (lớn), M / Medium (trung bình) và S / Small (nhỏ). Các thông số này có thể được kết hợp với Fine (mịn) và Normal (thông thường); ví dụ ảnh Medium + Fine sẽ có kích thước tệp tin lớn hơn so với Medium + Normal và cho hình ảnh đẹp hơn so với Small + Fine. Những kích thước này có giá trị thực tế như thế nào phụ thuộc loại máy ảnh và các phân chia trên từng máy ảnh. Để đánh giá đúng và đặt chế độ phù hợp, người chụp nên thử các kích cỡ mặc định trên máy, sau đó phân tích trên máy vi tính hay in thử để đặt chế độ tối ưu trong các trường hợp khác nhau.

RAW (đọc là: ro):
Định dạng ảnh thô là một định dạng tệp tin ảnh kỹ thuật số thường thấy trên các máy ảnh số DSLR. Ở định dạng RAW, ảnh không bị nén nhỏ lại sau khi đã chụp. Khi đặt ở chế độ ảnh thô (raw), máy ảnh kỹ thuật số sẽ lưu lại toàn bộ các thông số về ánh sáng và chi tiết của một kiểu ảnh (với khả năng tối đa của từng máy). Vì thế, định dạng raw cho hình ảnh giàu thông tin và chi tiết hơn, tạo khả năng chỉnh sửa tốt hơn trên các phần mềm chỉnh sửa ảnh số. Nhược điểm của định dạng raw là kích thước tệp ảnh lớn và bắt buộc phải xử lý bằng phần mềm trước khi có thể sử dụng trên internet hay đem in ảnh. Với định dạng raw, tất nhiên người chơi ảnh phải biết thêm cách sử dụng các phần mềm chỉnh sửa ảnh mà đôi khi hết sức phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu và thực tập mới làm chủ được. Ghi chú: Nhiều máy ảnh cho phép người chụp lưu ảnh trên hai định dạng cùng lúc (vừa JPEG vừa RAW). Hãy tìm hiểu kỹ máy ảnh của bạn để sử dụng hiệu quả hơn.

EXIF (Exchangeable Image File):
Định dạng tệp tin ảnh kỹ thuật số qui chuẩn với nhiều thông số kỹ thuật trong đó có thông số về: thời gian phơi sáng (exposure time), tiêu cự (f-number), tiêu cự (focal length), chỉ số ISO, khẩu độ mở (apature), ngày tháng (date/time), chế độ lấy nét (metering mode), chế độ đèn (flash), loại máy ảnh sử dụng (camera model), phần mềm sử dụng để xử lý ảnh (software), và các thông số khác. Ghi chú: Khi đăng tải ảnh trên internet, bạn cần lưu ý có nên giữ các thông số này hay nên xóa bỏ khỏi thông tin EXIF (EXIF data).

VinaCamera.com 2008